Nội dung bài viết
Nguồn gốc bài thuốc Địa hoàng ẩm tử:
- Tác giả: …
- Xuất xứ: Tuyên minh luận
Bài thuốc Địa hoàng ẩm tử nguyên bản:
Thành phần:
Can địa hoàng 20-40 gam.
Viễn chí 4-8 gam.
Ba kích 12 gam.
Sơn thù 12 gam.
Thạch hộc 12 gam.
Nhục thung dung 6-12 gam.
Ngũ vị 4 gam.
Nhục quế 4 gam.
Bạch phục linh 12 gam.
Mạch môn 12 gam.
Phụ tử (nướng) 6-12 gam.
Xương bồ 4-8 gam.
Cách dùng: Nguyên bài này là nghiền các vị thuốc thành bột, mỗi lần dùng 3 gam, lấy 1 bát rưỡi nước, 5 lát gừng sống, 1 quả Đại táo, 5-7 lá Bạc hà cho vào sắc lên lấy nước uống không kể thời gian nào. Hiện nay chuyển thành thuốc thang.

Công dụng:
Tư thận âm, bổ thận dương, an thần khai khiếu.
Chủ trị:
Địa hoàng ẩm tử trị trúng phong cấm khẩu, các chứng bệnh trong quá trình bị bệnh mạn tính xuất hiện Thận âm thận dương đều hư, động mạch não xơ cứng, di chứng tai biến mạch máu não…
Gia giảm:
Trường hợp chân yếu, thiên về Thận âm hư, các khớp xương nóng, thêm Tang chi, Địa cốt bì, Miết giáp để thoái hư nhiệt.
Nếu thiên về Thận dương hư, lưng gối đều có cảm giác lạnh, thêm Dâm dương hoắc, Thỏ ty tử, Tiên mao để làm ấm Thận dương.
Nếu có khí hư, thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm để bổ khí.
Nếu chỉ có chân yếu liệt có thể bỏ Thạch xương bồ, Viễn chí, Bạch linh).
Trường hợp chỉ có âm hư đờm hỏa thịnh, bỏ các loại thuốc ôn táo như Quế, Phụ, thêm Bôi mẫu, Trúc lịch, Đởm tinh, Thiên trúc hoàng để thanh hóa nhiệt đờm.

Phân tích bài thuốc Địa hoàng ẩm tử:
Can địa hoàng, Sơn thù du bổ ích Thận âm là chủ dược;
Ba kích, Nhục thung dung, Nhục quế, Phụ tử (chế) ôn Thận tráng dương, phối hợp với chủ dược làm cho nguyên dương được ôn dưỡng;
Nhục quế dẫn hỏa qui nguyên;
Thạch hộc, Mạch môn, Ngũ vị tử tư bổ âm dịch;
Bạch linh, Xương bồ, Viễn chí giao thông tâm thận, khai khiếu hoá đờm;
Bạc hà lợi yết; Khương, Táo hoà Vinh Vệ.
Bài thuốc có tác dụng vừa ôn bổ hạ nguyên, nhiếp nạp phù dương, vừa khai khiếu hóa đờm, tuyên thông khí của tâm và Phế.

Ứng dụng Địa hoàng ẩm tử trong thực tế:
Tác dụng trong lâm sàng:
Bài này chuyên dùng chữa trúng phong không nói được, hai chân suy yếu.
Hiện nay có thể dùng để trị những bệnh như tai biến mạch máu não, xơ cứng động mạch, có hội chứng bệnh lý Thận âm Thận dương đều hư.
Tài liệu tham khảo về Địa hoàng ẩm tử:
Chứng của bài này thuộc hạ nguyên hư suy, hư dương phù việt lên, đờm trọc theo đó dẫn lên làm ngăn trở các khiếu đến nỗi bên dưới thì bị quyết (lạnh chân tay), bên trên thì bị choáng váng. Bài này chủ yếu trị chứng ‘âm phì’, âm là lưỡi không nói được, phì là chân bại liệt. Thuốc dùng trong bài cũng nhằm vào hai chứng trạng đó, một mặt ôn bổ hạ nguyên, nhiếp nạp dương phù việt; một mặt khai khiếu hoá đờm, tuyên thông tâm khí. Trị cả trên dưới, cả gốc lẫn ngọn, nhưng trị dưới là chính.
Trên lâm sàng, nếu chỉ thấy chứng ‘phì’ (chân bị bại liệt) có thể bỏ bớt xương bồ, Viễn chí. Nếu chỉ thấy chứng âm (lưỡi không nói được) thì không dùng bài này được. Đồng thời, bài này ôn mà không táo, đó là sở trường đặc biệt, nhưng vẫn thiên về ôn bổ, nếu do khí hoả xông lên, can dương mạnh lên, bỗng nhiên bị câm thì bài này không dùng được (Thượng Hải phương tễ học).
Số liệu thực tế trong hiệu quả điều trị:
• Trị xuất huyết não: Trị 30 ca, trong đó, tai biến mạch máu não 9, xuất huyết dưới màng nhện 11, xuất huyết não 10. Bệnh tình ngắn nhất là 6 giờ, nhiều nhất 12 ngày, hôn mê 16, ngủ li bì 7, tỉnh táo 7. Kết quả: Khỏi 24, có chuyển biến 6 (Thiểm Tây trung y học viện học báo 2, 1989).
• Trị mi mắt co giật: Dùng bài này hợp với bài ‘Khiên chính tán’, trị 2 ca. Sau khi uống 20 thang, triệu chứng cải thiện nhiều, uống thêm 30 thang, khỏi bệnh (Bắc Kinh trung y 3, 1988).
• Trị huyết áp cao: Dùng bài này thêm Bán hạ, trị huyết áp cao do động mạch thận bị tắc nghẽn, chức năng thận bị suy kiệt. Sau khi uống 10 thang, bớt chóng mặt, uống tiếp 30 thang, huyết áp trở lại bình thường. Cho uống bài thuốc trên nửa năm, chức năng thận trở lại bình thường (Tứ Xuyên trung y 12, 1985).
• Trị huyết áp cao: Dùng bài này thêm Đỗ trọng, Trạch tả, trị 22 ca huyết áp cao loại âm dương đều hư. Kết quả: Đều khỏi (Hồ Bắc trung y 5, 1989).

• Trị nghẽn mạch máu não: Dùng bài này trị 5 ca, kết quả đều khỏi (Sơn Tây trung y 3, 1985).
• Trị rối loạn tiểu não: Dùng bài này thêm Hoàng kỳ, Quy bản, Đỗ trọng. Kết quả: Uống 10 thang, đỡ chóng mặt, 2 đùi (chân) đã có sức, tiếp tục uống sau 5 tháng, khỏi bệnh (Cát Lâm trung y dược 2, 1988).
• Trị bệnh Parkinson: Dùng bài này thêm Đởm tinh. Kết quả: Sau khi uống 19 thang, bệnh có giảm, uống tiếp 20 thang, hết run, uống tiếp hơn nửa năm, khỏi bệnh (Tứ Xuyên trung y 12, 1985).
• Trị bệnh ở tủy sống: Trị bệnh ở khe đốt sông, viêm đốt sống, hở đốt sông. Kết quả: Sau khi uống 20 thang, gân cơ phục hồi, chi dưới hoạt động lại được, uống 30 – 50 thang có thể tự bước đi, Hinh hoụt dưực (Liêu Ninh trung y dược 7, 1984).
Lưu ý khi sử dụng Địa hoàng ẩm tử:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
Bối mẫu phản vị Xuyên ô, Ô đầu, Phụ tử khi dùng chung có thể phát sinh phản ứng nguy hiểm cần chú ý
Vị thuốc thạch hộc kỵ Cương tàm, Ba đậu
Một số tài liệu cho rằng Đẳng sâm phản Lê lô. Chúng tôi không dùng chung Đẳng sâm và Lê lô

Tham khảo mua bán bài thuốc Địa hoàng ẩm tử:
(Chương trình dành riêng cho đồng nghiệp giúp mua được bài thuốc đủ vị và chất lượng tốt)
Bài thuốc Địa hoàng ẩm tử gồm các vị thuốc là thuốc đã được bào chế theo Tiêu chuẩn, và được ngành y tế kiểm nghiệm đạt chất lượng theo chuẩn Dược điển Việt Nam.
Giá bán Bài thuốc Địa hoàng ẩm tử (Tiêu chuẩn dược điển Việt Nam) tại Phòng khám Đông y An Chánh Kiện Khang:gọi 0344.198.966 để báo giá.
Tùy theo thời điểm, giá bán có thể thay đổi.
Cách thức mua:
Trước khi mua khách hàng nhất thiết phải có sự tư vấn của của các bác sỹ hoặc lương y, hoặc gọi 0344.198.966 để được chúng tôi khám bệnh trước khi dùng thuốc.
Khách hàng có thể mua trực tiếp tại địa chỉ phòng khám: số 2 ngõ 76 Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Mua trực tuyến: Thuốc được chuyển qua đường bưu điện, khi nhận được thuốc khách hàng mới phải thanh toán ( gọi 0344.198.966 – Hỗ trợ phí vận chuyển khi mua từ 1,5 triệu vnđ trở lên).
Tuỳ theo nhu cầu của khách hàng, Chúng tôi có thể bào chế bài thuốc này thành thuốc sắc sẵn vô trùng, thuốc hoàn tán, thuốc cô đặc…